Ung thư phổi được chia ra làm hai loại chính: Ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ chính cho cả hai loại này. Trong số những người được chẩn đoán ung thư tế bào nhỏ, 95% có tiền sử hút thuốc lá.
Với mỗi loại ung thư phổi tế bào nhỏ và không tế bào nhỏ, lại được chia thành những loại nhỏ hơn. Ung thư phổi không tế bào nhỏ bao gồm ung thư biểu mô tuyến, tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào lớn.
Ung thư phổi tế bào nhỏ đa dạng phụ thuộc vào sự biểu hiện của từng gen cụ thể. Một vài loại ác tính hơn, nhưng nhìn chung, ung thư phổi tế bào nhỏ thường ác tính hơn ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Ung thư phổi – bao gồm các loại tế bào nhỏ và không tế bào nhỏ – là loại ung thư ở người lớn phổ biến thứ 3 ở Hoa Kỳ. Ung thư phổi chiếm đến 13% các trường hợp chẩn đoán ung thư mới.
Ung thư phổi tế bào nhỏ và không tế bào nhỏ gây ra những triệu chứng khá tương tự. Đôi khi, các triệu chứng không xuất hiện cho đến khi ung thư tiến triển đến giai đoạn muộn.
Các triệu chứng bao gồm:
Các triệu chứng của ung thư phổi tế bào nhỏ và không tế bào nhỏ tương tự nhưng ung thư phổi tế bào nhỏ lây lan nhanh hơn.
Nguyên nhân cũng như các yếu tố nguy cơ của ung thư phổi tế bào nhỏ và không tế bào nhỏ cũng có xu hướng tương tự. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ chính. Khói thuốc lá và các hóa chất chứa trong đó có thể làm hỏng phổi. Điều này có thể dẫn đến những thay đổi tế bào và dẫn đến ung thư.
Những yếu tố nguy cơ khác bao gồm:
Nếu người bệnh bị ho dai dẳng và có những triệu chứng khác của ung thư phổi, bác sĩ sẽ đặt một vài câu hỏi và ghi nhận thông tin tiền sử bệnh và thực hiện một vài xét nghiệm kiểm tra thể chất.
Nếu có khả năng mắc ung thư, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện các xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang, chụp CT, tìm kiếm các dấu hiệu của khối u, sẹo hoặc tích tụ chất lỏng.
Họ cũng có thể yêu cầu thực hiện xét nghiệm dịch đờm. Việc này có thể giúp chỉ ra ung thư có tồn tại hay không. Bác sĩ sẽ có thể yêu cầu cung cấp mẫu 3 ngày liên tiếp vào mỗi buổi sáng.
Các bác sĩ cũng có thể thực hiện sinh thiết, sử dụng kim để lấy mẫu tế bào từ phổi để kiểm tra dưới kính hiển vi.
Sinh thiết có thể cho thấy:
Đôi khi, bác sĩ sẽ yêu cầu nội soi phế quản, sử dụng một công cụ tích hợp với camera luồn qua miệng hoặc mũi, và đi vào phổi. Kĩ thuật này có thể quan sát khu vực phổi bị tổn thương và lấy mẫu mô để xét nghiệm mô bệnh học.
Họ cũng có thể thực hiện các xét nghiệm khác để xác định xem ung thư đã xâm lấn ra ngoài phổi hay chưa.
Hình ảnh minh họa ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ – Nguồn ảnh: emedicinehealth.com
Giai đoạn ung thư mô tả mức độ xâm lấn của khối u trong cơ thể. Có những cách khác nhau để mô tả giai đoạn. Một cách xác định đơn giản là:
Tuy nhiên, mỗi loại ung thư phổi lại có một phương pháp chẩn đoán giai đoạn cụ thể riêng.
4.1. Ung thư phổi không tế bào nhỏ:
Đối với loại ung thư này, bác bác sĩ thường sẽ sử dụng hệ thống phân loại 5 giai đoạn như sau:
Hình ảnh minh họa các giai đoạn của ung thư phổi – Nguồn ảnh: drugwatch.com
4.2. Ung thư phổi tế bào nhỏ
Các bác sĩ thường sẽ phân loại ung thư phổi tế bào nhỏ với 1 hoặc 2 giai đoạn như sau:
Có khoảng 5 – 28% các trường hợp ung thư phổi tế bào nhỏ là hỗn hợp. Điều này có nghĩa là một người có thể ung thư phổi tế bào nhỏ và không tế bào nhỏ. Các nghiên cứu cho thấy rằng ung thư dạng hỗn hợp này có khả năng dễ điều trị hơn dạng ung thư phổi tế bào nhỏ đơn độc.
Điều trị
Sau khi chẩn đoán, bác sĩ sẽ mô tả các lựa chọn phương pháp điều trị và xây dựng một kế hoạch điều trị.
Các yếu tố ảnh hưởng tới kế hoạch điều trị sẽ bao gồm:
5.1. Ung thư phổi không tế bào nhỏ
Các lựa chọn điều trị cho ung thư phổi không tế bào nhỏ bao gồm:
5.2. Ung thư phổi tế bào nhỏ
Đối với ung thư phổi tế bào nhỏ, phương pháp điều trị chủ yếu là để kiểm soát bệnh. Các phương án bao gồm:
Các bác sĩ có thể kết hợp với các phương pháp điều trị cho ung thư phổi, phụ thuộc vào nhu cầu của cá nhân, giai đoạn của ung thư và vị trí của khối u.
Các chuyên gia sử dụng các dữ liệu thống kê trong quá khứ để ước tính phần trăm những người có thể sống được 5 năm trở lên sau khi được chẩn đoán ung thư. Những ước tính này được gọi là tỉ lệ sống sót.
Chỉ số này đại diện cho mức trung bình và không tính đến các yếu tố như độ tuổi hoặc sức khỏe tổng thể của cá nhân.
6.1. Ung thư phổi không tế bào nhỏ
Với ung thư phổi không tế bào nhỏ, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) báo cáo tỉ lệ sống sót sau 5 năm có liên quan như sau:
Tỉ lệ trung bình sống 5 năm là khoảng 26%.
6.2. Ung thư phổi tế bào nhỏ
ACS – Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ ước tính tỉ lệ sống sau 5 năm đối với người ung thư phổi tế bào nhỏ như sau:
Tỉ lệ trung bình những bệnh nhân sống sót sau 5 năm sau khi được chẩn đoán ung thư phổi tế bào nhỏ là 7%.
Các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ sinh tồn bao gồm ung thư tái phát và độ tuổi của người đó. Ung thư tái phát và tuổi cao có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ sống sót.
Kết luận
Nhật Bản không chỉ là một trong những cường quốc về kinh tế, mà còn là quốc gia có thành tích y tế nổi bật. Theo tạp chí CEOWORLD 2021, Nhật Bản xếp hạng thứ 5 trong danh sách các nước có hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt nhất trên thế giới. Hiện tại, trên thế giới, cũng chỉ có 5 quốc gia với 12 cơ sở điều trị ion nặng. Trong đó, tại Châu Á, Nhật Bản là quốc gia có thế mạnh nhất trong việc điều trị ung thư bằng xạ trị ion nặng với 6 cơ sở. Bên cạnh đó, bệnh nhân ung thư còn có thể được điều trị bằng những phương pháp tiên tiến nhất hiện nay như liệu pháp proton, liệu pháp miễn dịch, v.v.
Xem thêm:
Tại sao lại lựa chọn IIMS-VNM?
Với mong muốn tạo cơ hội để khách hàng Việt Nam có thể tiếp cận với những phương pháp điều trị tiên tiến nhất trên thế giới, Công ty TNHH Hỗ trợ y tế quốc tế IMS Việt Nam (IIMS-VNM) sẽ là cầu nối trực tiếp hỗ trợ. Người bệnh và gia đình hoàn toàn có thể yên tâm bởi:
Tập đoàn y tế IMS Nhật Bản với hơn 130 cơ sở y tế trên toàn nước Nhật (*) Số liệu cập nhật năm 2020
Thông tin liên hệ IIMS-VNM – Khám chữa bệnh chất lượng cao tại Nhật Bản
Ngoài ra, bạn đọc có thể nhấn nút Quan tâm hoặc chat với Zalo IIMS-VNM để cập nhật thêm các thông tin hữu ích bằng cách quét mã code QR sau:
Tham khảo: https://www.medicalnewstoday.com/articles/316477
Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. Người bệnh cần tư vấn ý kiến bác sĩ để lựa chọn phương án điều trị phù hợp.